Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Việt Nam, Hà Nội
Hoàn thành
1975

Nếu lịch sử lấy năm 1975 làm năm đánh dấu sự thẳng lợi vang dội của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì năm 1975 chấm dứt kế hoạch xây dựng cơ bản 5 năm lần thứ 3 với công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, một công trình chưa từng có trong lịch sử kiến trúc dân tộc.

Nhân dân cả nước, từ miền Bắc đến miền Nam, từ miền xuôi đến miền núi đã góp công góp của xây Lăng Bác từ ngày 2-9-1973. Gần mười ngàn mét vuông đá ốp gồm 27 loại, trong đó có 11 loại đã đưa từ các tỉnh Thanh Hóa. Cao Bằng, Hà Sơn Bình (Hà Tây xưa & Hoà Bình), Yên Bái. Đá đỏ Bá Thước (Thanh Hóa) đẹp như màu cờ, ghép gần 4000 mảnh đủ nhỏ gắn bằng chất keo cao phân tử thích hợp với khí hậu nhiệt đới, đã tạo nên hai lá cờ, một cờ Đảng, một cờ Tổ quốc, mỗi lá cờ dài hơn 6 mét, rộng gần 3 mét, ốp trên tường trong phòng đặt thi hài Bác.

Gỗ làm cửa, lan can và các tiện nghi trang trí trong Lăng phần lớn là gỗ quý của đồng bào miền Nam gửi ra, như gõ, gụ, trắc, nụ, hương tía, đinh hương. Cây trồng hơn 10 loại, hoa hơn 20 giống đưa từ Sơn La, Lai Châu, Nghĩa Lộ, Lào Cai, Cao Bằng. Hà Tuyên, Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định), Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và từ quê hương miền Nam về trồng bên Lăng và quanh quảng trường.

Trong 120 phương án mẫu Lăng, chọn được 38 phương án đem triển lãm đề trưng cầu ý kiến của nhân dân ở nằm nơi. Đây cũng là một công trình thể hiện tinh thần hợp tác hữu nghị Việt - Xô. Liên Xô đã cử nhiều chuyên gia và công nhân sang giúp ta trong công tác thiết kế, thi công và giải quyết nhiều công tác khoa học, kỹ thuật phức tạp khác. Trên cơ sở các phương án do kiến trúc sư, các nhà khoa học, kỹ thuật và đông đảo quần chúng Việt Nam đề xuất, một tập thể kiến trúc sư và kỹ sư Liên Xô đã nghiên cứu các ý kiến và hoàn thành phương án thiết kế kỹ thuậi. Các kiến trúc sư B. Mê-đen-sép, G. I-sa-cô-vích, các kỹ sư V. Bai-cô; U. Ghéc- si-cốp, V. Mê-si-tốp-xơ với sự tham gia của hai kiến trúc sư và ba kỹ sư khác đã hoàn thành đúng hạn việc thiết kế công trình cho thi công.

Lăng cao 21,60 mét, đứng trước quảng trường dài 320 mét, rộng gần trăm mét (đủ chỗ cho từ 10 đến 20 vạn người dự mit tinh), với hình khối vững chắc trang nghiêm, giản dị, nổi lên đồ sộ, chờ đợi trong tương lai những công trình kiến trúc cao rộng quanh quảng trường, trước và sau lăng Bác.

Khối Lăng vuông, bốn mặt ốp đá nâu tươi làm nổi lên hàng cột vuông ốp đá hoa cương xám sẫm, đặt trên một thềm tam cấp mà bậc dưới cùng cao hơn 5 mét là lễ đài đủ chỗ cho từ 70 đến 100 người đứng. Lăng đặt trên tam cấp là hợp với phong cách cổ truyền của người Việt, thể hiện lòng tôn kính đối với Bác.

Sự tôn kính của nhân dân ta đối với Bác Hồ không chấp nhận việc đặt nơi an nghỉ cuối cùng của Bác ở một không gian mà người đến viếng phải “đi xuống”, mà phải đặt ở một không gian để “đi lên”. Truyền thống đặt trên cao những hình lượng tôn kính hòa hợp với yêu cầu địa lý của nơi có khả năng thấy nước sông Hồng dâng cao 5 - 6 mét. Đài hoa, trên có đặt hòm kính thi hài Bác ở trong Lăng đã được tính là "cao trên mực nước sông Hồng, ngang tầm ngực người đứng trên lễ đài của Đoàn Chủ tịch".

Nếu có gì khác Lăng Lê-nin và Lăng Đi-mi-trốp thì đây là điều khác cơ bản và cũng là nét nổi bật trong cố gắng khai thác truyền thống dân tộc. Căn phòng Bác yên nghỉ có chiều dọc, ngang và cao 10 mét. Tường lát cầm thạch trắng ngà. Khoảng tường sát trần nhả, đá màu đen ánh tạo hình những đóa hoa sen cách điệu. Đồng bào đã gắn tên Bác Hồ với hình tượng hoa sen và ở đây các nhà kiến trúc và nghệ sĩ tạo hình đã trung thành với hiểu tượng tinh cảm của nhân dân đối với Bác.

 

Bình luận

(0)
Loading...
Danh mục
Loại dự án
Dự án khác tại
Hình ảnh